Bài đăng nổi bật

Ý NGHĨA ĐẠO TRỜI NGÀY MÙNG 9 THÁNG GIÊNG Mỗi năm, cứ đến ngày Mùng 9 tháng Giêng, toàn đạo Cao Đài đều thiết lễ Vía Thầy, Đức Ngọc Hoàng ...

Thứ Hai, 6 tháng 2, 2017

Ý NGHĨA ĐẠO TRỜI NGÀY MÙNG 9 THÁNG GIÊNG
Mỗi năm, cứ đến ngày Mùng 9 tháng Giêng, toàn đạo Cao Đài đều thiết lễ Vía Thầy, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, là ngày biểu trưng cho ý nghĩa Tạo Đoan hoàn thành vũ trụ.
Đặc biệt đối với người đạo Cao Đài Tiên Thiên, bắt đầu từ Mùng 9 tháng Giêng năm Canh Dần 2010, được chính thức công nhận là ngày Khai Đạo Cao Đài Tiên Thiên do Thông Báo số 39/TB/BTT đề ngày 13/11/Kỷ Sửu (25.12.2009) của Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên. Theo đó thì ngày Đức Chí Tôn dạy khai sáng Tiên Thiên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là ngày mùng 9 tháng Giêng năm Giáp Tý 1924 tại Thiên Thai Tịnh mà sau nầy là Tòa Thánh Vô Vi Thiên Thai (Cai Lậy-Tiền Giang).
Như thế, tầm quan trọng của ngày Đại lễ được nhân đôi và càng khiến cho chúng ta tìm hiểu sâu hơn về ý nghĩa của ngày trọng đại đó.
Khi đề cập tới vũ trụ và nhân sinh, người đạo Cao Đài thường lưu truyền câu Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần : Trời mở mang ở Hội Tý, Đất mở rộng thêm ở Hội Sửu, Người sanh ra ở Hội Dần [1]. Đó là nói theo chu kỳ tạo đoan của vũ trụ. Còn nói theo ba ngôi (tam tài) thì ngôi Người tuy thuộc hàng thứ ba nhưng lại đứng ở vị trí chính giữa của ngôi Trời và ngôi Đất.
Không biết từ bao giờ, hình vẽ Tam Tài đã đặt ngôi Người đứng chính giữa, đầu đội trời chân đạp đất, khoảng giữa có Trời che đất chở Ta thong thả [2] đó chính
là Cao Đài ứng hóa theo lòng chúng sanh [3] vậy.
Trên Cao là Trời Cha, biểu tượng bởi số 9 lão dương; dưới Đài là Đất Mẹ, biểu tượng bởi số 6 lão Âm. Đất Trời được ứng hóa đều do lòng chúng sanh, mà lòng chúng sanh có ai khác hơn ngoài con Người hay người Con biểu tượng bằng tháng Giêng thuộc Dần?
Cũng từ sự ứng hóa đó mà lòng chúng sanh tức con người nói chung, dân tộc Việt nói riêng đều nảy sinh tín ngưỡng thờ Trời hay Hoàng Thiên Hậu Thổ được thể hiện qua Đàn tế Nam Giao của các triều đại phong kiến Việt Nam và Bàn Ông Thiên trong dân gian, hoặc Đài Ngưỡng Thiên Cầu Nguyện Hòa Bình của Cao Đài Tiên Thiên hồi hậu bán thế kỷ 21 (1970).
Đó là nguyên do của ngày lễ Vía Đức Chí Tôn trong Đạo Cao Đài, cũng là nguyên do của Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên chọn ngày Mùng 9 tháng Giêng là ngày Khai sáng nền Tiên Thiên Đại Đạo trong Tam Kỳ Phổ Độ theo Thánh ý Đức Chí Tôn dạy tại Thiên Thai Tịnh vào Tý thời ngày mùng 9/Giêng/Giáp Tý (1924) trong Đại Hội Thiên Hoàng:
Bạch NGỌC gi áng lâm buổi mạt đời
HOÀNG đồ bố hóa khắp nơi nơi
THƯỢNG căn Đại Đạo Tiên Thiên xuất
ĐẾ nghiệp Nam bang sửa thế thời.
KIM viết ân hồng qui chánh giáo
CAO ĐÀI võ lộ hiệp cơ trời
NAM PHƯƠNG GIÁO ĐẠO con Hồng Lạc
Phục thủy linh căn đáo Thượng đời [4]
I. ÔNG TRỜI QUA TỤC NGỮ CA DAO:
Trước ngày Đạo Cao Đài ra đời, trong đời sống tinh thần của dân gian Việt Nam tự ngàn xưa đã có tư tưởng tin thờ Trời được ghi lại bằng ca dao, tục ngữ, thể hiện qua các mặt sinh hoạt khi mà con người đứng trước sự hùng vĩ của thiên nhiên, trước những thiên tai địa ách và nhơn họa đao binh, họ cảm thấy quá bé nhỏ và yếu đuối nên cần đến uy linh siêu nhiên của Ông Trời, về sau tín ngưỡng tôn giáo gọi là Thượng Đế hay Ngọc Hoàng Thượng Đế. Không nói chi đến thời xa xưa, ngay cả thời nay, dù người có đạo hay không có đạo cũng nhiều phen cầu Trời hay kêu Trời mỗi khi thất bại hay thành công trong cuộc sống. Đó chẳng phải là Đạo Trời luôn bàng bạc, chan hòa khắp không gian bao la và từng thời gian ngắn ngủi theo nhịp thở của vạn vật, của nhơn loại sao?
1. Ông Trời tạo hóa:
Người dân bình dị ít chữ nghĩa, cũng cảm thấy mình linh mẫn hơn các loài vật khác, và dù không lý giải được nguyên nhân hình thành vũ trụ là như thế nào, nhưng cũng mường tượng rằng có một Đấng siêu nhiên là Ông Trời tạo ra bầu trời và sản sinh nguồn sống cho vạn vật, như cô gái nhà quê hỏi một bạn trai nọ:
Thấy anh hay chữ, em hỏi thử đôi lời:
Thưở tạo thiên lập địa, Ông Trời tròn ai xây?
Từ Ông Trời tròn thiên nhiên, Ông Trời Vô Ngã, người ta đoan chắc rằng phải có Ông Trời Hữu Ngã, tức Ông Trời có “nhân cách” để tạo lập, cai quản, điều hành bầu trời thiên nhiên đó một cách trật tự, vì có quá nhiều thứ trên mặt đất mà con người không cách nào làm được, và người ta không tin núi non trùng điệp kia, sông sâu biển rộng bao la kia cũng không phải ngẫu nhiên mà có, phải do bàn tay vô hình nào đó sắp đặt:
Núi kia ai đấp nên cao,
Sông kia biển nọ ai đào mà sâu?
Đến cả những loại cây trái trong rừng, tại sao thế nầy mà không là thế nọ, như gai, ai chuốt cho nó nhọn; trái, ai vo cho nó tròn ?
Gai trên rừng ai bứt mà nhọn,
Trái trên cây ai vo mà tròn?
Hỏi tức là đã có câu trả lời. Chữ “ai” mà dân gian dùng cho những câu trên là ai ? Là Ông Trời vậy! Cho nên, có Ông Trời trước rồi mới có mình sau, mình đây là nhơn loại:
Con chim nó hót trên cành,
Nếu Trời không có, có mình làm sao?
Con chim nó hót trên cao,
Nếu Trời không có, làm sao có mình?
2. Ông Trời sinh dưỡng:
Ông Trời trót đã sanh ra loài người thì Ổng cũng phải ban cho loài người cái gì đó để sống. Đạo Công Giáo truyền sang Việt Nam từ thế kỷ 18, nên dân ta cũng ảnh hưởng lời Đức Chúa Trời chép trong Kinh Thánh Cựu Ước ở chương Sáng Thế Ký: Ta sẽ ban cho mọi thứ cỏ kết hột mọc khắp mặt đất và các loại cây xanh quả ấy sẽ là đồ ăn cho các ngươi [5], như câu tục ngữ:
Trời sanh Trời dưỡng.
Trời sanh voi, Trời sanh cỏ.
Tuy nhiên, khái niệm về “Trời dưỡng” không phải người ta cứ ngồi không mà nhận lấy cái ăn cái mặc như “há miệng chờ sung rụng”, mà phải ra công vun trồng “cây cỏ” do Trời sanh mới có cỏ cho “voi ăn”.
Trời nào có phụ ai đâu,
Hay làm thì giàu có chí thì nên.
Làm đây là làm ăn lương thiện, cư xử với nhau có nhân có đức, có lòng tốt thì Trời mới nhỏ phước xuống cho, vì Trời đâu bao giờ phụ bạc người có tấm lòng tốt: Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn [6].
Ở hiền thì lại gặp lành,
Những người nhân đức Trời danh phước cho.
Nhưng khi có của ăn của để rồi thì cũng nên tiết kiệm, tiêu xài có ngằn đúng nơi đúng việc, không nên tiêu xài phung phí vào những cuộc vui chơi vô bổ, hoặc sắm sanh dư thừa ăn nửa bỏ nửa, bởi phí phạm của Trời thì những đời sau chẳng còn cái để mà ăn:
Phí của Trời, mười đời chẳng có.
Làm người nên biết tiện tằn
Đồ ăn thức mặc có ngằn thì thôi.
Những người đói rách rạc rời
Bởi phụ của Trời, làm chẳng có ăn.
Tiện tặn không có nghĩa là hà tiện bỏn sẻn, cái gì cũng bo bo gom về mình, “bòn tro đãi trấu” từ công sức của người khác. Người tiện tặn cũng là người rộng rãi tốt bụng, hay giúp đỡ người thiếu thốn mà không tiếc, vì “người ta ăn thì còn, mình ăn thì hết”:
Ở xởi lởi Trời cởi ra cho
Ở so đo Trời co ro lại.
Mặc dù “mưu sự do người, thành do Trời”, nhưng nếu ai cần mẫn siêng năng với thành tâm thiện ý thì Trời cũng chiếu cố ban ơn như lời động viên của một hiền phụ đối với chồng:
Xin chàng kinh sử học hành
Để em cày cấy cửi canh kịp người.
Mai sau xiêm áo thảnh thơi
Ơn Trời lộc nước đời đời hiển vinh.
Thái độ phó mặc cho Trời rất phổ biến trong dân gian thời xưa, nhưng trong thâm tâm người trong cuộc cũng có chút gì đó mang nghị lưc phấn đấu vì “tận nhơn lực” mới “tri thiên mạng”, và sự “tận nhơn lực” diễn ra một cách bình tĩnh, không nôn nóng vội vàng:
Làm trai quyết chí tu thân,
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Khi nên Trời giúp công cho,
Làm trai năm liệu bảy lo mới hào.
Trời sinh Trời chẳng phụ nào,
Công danh gặp hội anh hào ra tay.
3. Ông Trời công chứng:
Ông Trời cũng được người trần đặt vào ngôi vị là một “nhân chứng thiêng liêng” cho những mối tình nam nữ:
Trời cao đất rộng
Em vọng lời nguyền
Đất trời còn đó
Em giữ tuyền thủy chung.
Bên cạnh sự yên ấm hạnh phúc, cuộc sống con người còn có những biến động bất tường, khiến người ta buộc phải than trách Ông Trời hoặc kêu trời bằng giọng thống thiết bởi cảnh sanh ly như:
Trời ơi sinh giặc làm chi
Cho chồng tôi phải ra đi chiến trường.
và cảnh tử biệt như:
Lá vàng đeo đẳng trên cây
Lá xanh rụng xuống, Trời hay chăng Trời?
hoặc khốn khổ vì sưu cao thuế nặng như:
Đời ông cho tới đời cha,
Đời nào khổ cực như ta đời nầy.
Ngoài đồng cắm cọc giăng giây,
Vườn nhà đóng thuế vợ gầy con khô,
Xâu cao thuế nặng biết chừng mô hỡi Trời !
Tại đôi lúc khổ quá nên người mình than trách Ông Trời một chút thôi chớ trong lòng vẫn in khắc Ông Trời như vị Thần hộ mạng trong những vụ mùa bị hạn hán:
Lạy Trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm tôi thổi
Lấy chổi quét nhà
Con gà nhặt thóc…
hoặc những khi gặp cơn hoạn nạn, phong vũ bất kỳ:
Nghiêng vai ngửa vái Ông Trời
Đương cơn hoạn nạn, độ người trần gian.
hoặc vì nỗi hiếu thân cha già mẹ yếu:
Đêm đêm thắp ngọn đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

Qua được lúc cỏ cháy đồng khô và những hồi hoạn nạn rồi, cuộc sống nhà nông trở lại bình thường với niềm vui lao động, tưng bừng cả “trên đồng cạn dưới đòng sâu”:
Ơn Trời mưa nắng phải thì
Nơi thì cày cạn, nơi thì bừa sâu.
hay là: Nhờ Trời mưa thuận gió hòa
Nào cày nào cấy trẻ già đua nhau.
Chưa hết, có lẽ do ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo về thuyết nhân quả nên dân gian còn xem Ông Trời như là một vị Thần linh cầm cân công bình, thưởng thiện phạt ác:
Trời quả báo, ăn cháo gẫy răng
Ăn cơm gẫy đũa, xỉa răng gẫy chà.
Do đó, người ta mới khuyên răn nhau ăn ở làm sao cho có nhân có nghĩa và sống đúng theo luân thường đạo lý, đừng cậy mạnh hiếp đáp kẻ thân cô thế yếu, đừng cậy giàu sang chèn ép kẻ nghèo hèn, vì “Trời cao có mắt”, trên đầu mình còn có Ông Trời soi xét, há không lấy làm kinh sợ sao ?
Cứ trong nhơn nghĩa luân thường
Làm người phải giữ kỷ cương mới mầu.
Đừng cậy khỏe, chớ cậy giàu
Trời kia còn ở trên đầu, còn kinh.
Cho nên trong sinh hoạt mua bán làm ăn, người ta coi trọng sự thành thật với nhau, không dám để mất chữ tín, bởi đâu có hay ho gì khi mình kiếm lợi bằng sự lừa đảo gian dối ngươi khác. Có tiền thì cả gia đình mình, bạn thân mình ăn xài hỉ hạ, nhưng khi mang tội thì chỉ một mình lãnh đủ thôi:
Tin nhau buôn bán cùng nhau,
Thiệt hơn hơn thiệt, trước sau như lời.
Hay gì lừa đảo kiếm lời,
Một nhà ăn uống, tội Trời ai mang.
Đó là chưa kể tiền của tạo ra bằng việc làm phi nghĩa thì cũng có ngày Ông Trời sẽ lấy lại, không cho nữa:
Của Trời, Trời lại lấy đi,
Giương hai mắt ếch làm chi được Trời.
Tuy nhiên trong xã hội cũng không hiếm người vì khốn khổ quá nên đâm liều, “bần cùng sanh đạo tặc”, biết là việc làm quấy có tội nhưng cái bụng đói buộc phải làm, và khi làm lại nghĩ là Ông Trời cũng thông cảm mà xí xóa cho không phải tội, lời ẩn dụ dí dỏm bằng hình ảnh người đi trong mưa mà không có nón:
Trời mưa thì mặc trời mưa
Tôi không có nón trời chừa tôi ra.
Cuối cùng, người ta có lúc cũng suy nghĩ lại: mỗi việc ở trần gian nầy cứ kêu Trời, than Trời, trách Trời hoài thì không nên, vì Trời là Cha thiêng liêng ở cõi Thiên đàng vĩnh cửu, trần gian nầy chỗ tạm, đâu phải là ngôi nhà thật thọ của mình để ở mãi đâu mà phải lao tâm khổ tứ tranh danh đoạt lợi, làm sao có ngày về gặp Cha ở trên trời cho được:
Xưa kia chỉ biết kêu Trời
Mà nay đã biết gọi Trời là Cha.
Trần gian chẳng phải là nhà
Đi về vĩnh cửu gặp Cha trên trời.
Thế nên, dù ai không tin có Trời, không tin có Thiên đàng Địa ngục, có luân hồi quả báo, thì bổn phận ta vẫn ôm giữ Đạo Trời không phút nào lơi lãng:
Dù ai nói ngược nói xuôi,
Ta đây vẫn giữ Đạo Trời khăng khăng.
II. ÔNG TRỜI TRONG ĐẠO TRỜI:
Đạo Trời tức Thiên Đạo. Ở đây, khái niệm về Thiên Đạo, chúng ta chỉ có thể nhận qua ba góc độ:
1. Về góc độ Đại Đạo:
Thiên Đạo là chân lý, là năng lực hóa dục vũ trụ, vạn vật. Khi chưa có trời đất đã có Đạo, nó vốn tịch nhiên vô vật, vô danh, vô thể, vô hình, vô tượng, vô thỉ, vô chung, vô nội, vô ngoại…nhưng không có chỗ nào mà Đạo không bao quát. Ở xa thì tồn tại trên cõi Tiên Thiên, ở gần thì tồn tại dưới điểm Nhất Tâm.Theo ngài Trang Tử, Đạo vô vi không có hình trạng, có truyền nó được mà không thấy nó được, tự bổn tự căn, chưa có trời đất đã có nó tồn tại từ xưa [7].
Vũ trụ vạn loại, vạn vật,vạn sự đều nương vào Đạo mà phát sinh, nương vào Đạo mà bảo tồn. Nghĩa lý của Đạo vô cùng uyên thâm và huyền diệu: là chân lý của Vô cực, là sự áo diệu của Tiên Thiên, chí thần chí minh. Cái lý ấy quán triệt cả trời đất muôn vật, cho nên hợp với lý ấy là thuận hợp với Đạo, trái với lý ấy là bội nghịch với Đạo.
Cho nên, với góc độ Đại Đạo, tại trời thì gọi là Thiên lý; tại đất thì gọi là Địa lý; tại vật thì gọi là Vật lý và tại người gọi là Tánh lý.
2. Về góc độ tôn giáo:
Tôn giáo là một hiện tượng văn hóa về tâm linh và thực hành đạo đức; thế giới quan và tổ chức xã hội có liên quan đến trật tự sinh tồn cho nhơn loại. Tôn giáo có khả năng thiết định sự kiểm soát trong vũ trụ và duy trì trật tự xã hội và đạo đức của các dân tộc.
Bất kể người đời đánh giá thế nào về tín ngưỡng tôn giáo, cuối cùng người ta cũng thực sự xác nhận nó đóng góp ba chức năng quan trọng trong cuộc sống:
1) Chức năng sinh tồn
2) Chức năng hội nhập
3) Chức năng nhận thức về đạo đức.
Nhìn qua các nền tôn giáo, tất nhiên có những điểm dị biệt về hình thức bên ngoài, nhưng bản chất đều lấy việc giáo dân vi thiện, an ủi tâm linh, xúc tiến sự hài hòa xã hội làm công năng và mục đích. Người giáo đồ luôn tâm niệm: học cho sáng lý Đạo để thực hành theo tôn chỉ, qui giới. Kính Thiên Địa, lễ Thần minh, hiếu phụ mẫu, trọng tiền nhân, tín bằng hữu, hòa hương lân, cẩn ngôn thận hành, cải ác hướng thiện; ngoài việc giữ gìn cang thường luân lý, còn phải nghiên cứu Thánh học Tiên phương, tu luyện nội hàm, làm sáng lại bổn tánh, chánh kỷ hóa nhơn, vãn hồi tệ nạn, tịnh hóa nhơn tâm và nguyện cầu thế giới hòa bình.
Lại với cái nhìn từ góc độ đoàn thể tôn giáo, Tiên Thiên Đạo là tôn giáo siêu việt, vượt cả thời gian và không gian.
3. Về góc độ Dịch số:
1) Ngày mùng 9: Số 9 theo số thứ tự của quẻ Dịch, thuộc quẻ Phong Thiên Tiểu Súc 風天小畜 ,có ý nghĩa lấy nhỏ nuôi lớn; mượn sự nuôi dưỡng Dương mà thối Âm. Giữ tâm có như không, thực như hư; trau dồi tâm đức càng ngày càng cao để từ từ tiến vào cảnh giới Thánh Hiền.
Số 9 còn là số của sự thương yêu rộng lớn (đại ái số). Chữ số 9 nầy rất đặc biệt, nó cộng hay nhân với bất kỳ số nào cũng trở về số 9. Ví dụ:
1+2+3+4+5+6+7+8=36 (3+6=9).
Và: 2x9=18 (1+8=9), 9x5=45 (4+5=9).
Cho nên việc bắt đầu kết hợp từ số 1, số 9 sẽ biến hóa ra chuỗi số vô tận để cuối cùng lại trở về 9 theo định luật nhứt bổn tán vạn thù, vạn thù qui nhứt bổn [8], cũng như trong vũ trụ có 3 màu chính là xanh, đỏ, vàng nhưng có thể bao gồm vô số màu sắc khác.
Thời nhà Minh, Vương Quì 王逵 có ghi trong Lãi Hải Tập 蠡海集 rằng: Ý nghĩa về Ngọc Đế giáng sinh ngày mùng 9 tháng Giêng là: Số dương bắt đầu tại số 1, và tận cùng ở số 9, có nguồn gốc khởi nguyên đến điểm cuối cùng [9].
Mùng 9 theo Dịch lý còn là số thuộc Kiền, Kiền vi Thiên 乾爲天 tức Đạo Trời; tháng Giêng là tháng Dần, Nhơn sinh ư Dần人生於寅 tức Đạo Người. Trời Người tác hợp có nghĩa là con người phải sống theo Đạo Trời. Trời có bốn Đức: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.
2) Tháng Giêng mùa Xuân, ứng với số 1 là số bổn nguyên, sáng thế, thuộc dương Mộc; là hạt giống của sinh mệnh; nó bắt đầu như một dấu hiệu sáng tạo, khơi mở mầm móng cho vạn vật; ứng với đức Nhân của Ngũ Đức.
Theo số thứ tự của quẻ Dịch, số 1 thuộc quẻ Bát Thuần Kiền 八純乾 ,hợp với đức Nguyên 元của Kiền Đạo: thuần dương cương kiện để có thể hình thành được nền tảng vững mạnh cho sự sinh sôi trưởng dưỡng muôn vật mà trước đó có hiện tượng Tam Dương khai Thái: ba dương từ dưới vươn lên mở ra một cảnh giới Trời Đất giao hòa (Địa Thiên Thái 地天泰 ) , âm tiêu dương trưởng, biểu ý cho vận xấu qua đi vận may trở lại.
Tính cương kiện nầy không chỉ khởi lên đức Nguyên ở mùa xuân rồi dừng lại ở đó, mà nó phải hành kiện xuyên suốt qua ba mùa kế tiếp là Hạ, Thu, Đông và lòn lõi qua ba đức Hanh 亨, Lợi 利, Trinh 貞 nữa. Thời tiết bốn mùa đều mang các yếu tố thịnh suy bỉ thới đều cần đến tính năng cương kiện để duy trì bản sắc của mỗi thời. Như mùa Xuân Nguyên sơ dương khí mới sanh, cây cỏ nảy mầm…cũng do tác động của cương kiện; mùa Hạ Hanh thông, dương khí sung mãn lưu hành, trưởng dưỡng vạn vật, cỏ cây phấn phát cũng do sự thúc đẩy của cương kiện; mùa Thu liễm thâu vạn vật, dương khí thích nghi, gặt hái lợi lộc… cũng do sự tá trợ của cương kiện; mùa Đông ẩn tàng, dương khí yên tĩnh, vạn vật trở về cội rễ của mình, giữ được sự chính bền đều nhờ vào cương kiện kềm giữ.
Cơ số 1 còn hàm chứa một lực lượng tích cực mạnh mẽ, đại biểu cho người Cha, cho Đấng Chí Tôn Đại Từ Phụ. Số 1 không chỉ là số đầu tiên, nó còn là số nền tảng của phép tắc sản sinh ra những chữ số tiếp theo sau nó.
Lợi thế tích cực của số 1 là dũng cảm, tính sáng tạo, tiến thủ, lạc quan, tín nhiệm. Số 1 cũng tượng trưng cho Thái cực, là nguồn gốc sinh ra vạn tượng, vạn hữu, vũ trụ, quần sinh. Đức Chí Tôn dạy:
Thầy sanh con mỗi con sẵn lộc
Cây sống nào không gốc đâu con?
Khắp trong vạn vật sống còn
Do Thầy sanh hóa bảo tồn thể thân” [10]
2) Nói về Đạo Người thì như chúng ta đã biết, do Người đứng chung ngôi tam tài cùng Trời Đất, nên ở vũ trụ Trời có chi thì cơ thể Người tương đương có nấy. Để giữ được sự thái hòa trong con người, chúng ta chỉ có cách là sống theo Đạo Trời. Cụ thể qua mấy điểm:
a. Tháng Giêng là tháng để người ta hoạch định các dự án làm ăn cho năm mới, cũng như giờ Dần người ta phải thức dậy toan tính công việc cho một ngày mới, đòi hỏi phải tập trung tinh thần và sức lực vào niên trình mới. Tinh thần và sức lực được hấp thu đầy chất cương kiện từ Kiền Đạo (Đạo Trời). Cương là ý chí cứng cõi, không chịu khuất phục trước ma lực tà thần nào, không chùn bước trước một chướng ngại nào trên đường tu thân hành đạo. Kiện là đức tin vững mạnh, không một tà thuyết nào làm lung lạc được tấm lòng kiên định, làm nghiêng đổ niềm tin của ta hướng về mục tiêu mà mình đã chọn.
b. Tháng Giêng là ứng với Đức Nhân 仁 của Đấng tạo đoan vũ trụ, cũng là đức Nhân đứng đầu trong ngũ đức của Đạo làm người. Nên khi chúng ta dâng lễ Vía Thầy cũng là dịp để suy niệm và thực hành đức Nhân theo tình Tạo hóa yêu sanh muôn vật.
Lòng Trời Đất thương đều muôn vật
Đức háo sanh Tiên, Phật một màu
Thượng cầm hạ thú lao xao
Côn trùng thảo mộc, loài nào chẳng linh.
[Kinh Sám Hối]
Đức Nhân tuy chỉ là một trong năm đức nhưng vì là đức “anh cả” đứng đầu, nên chức năng của nó bao gồm cả bốn đức kế là Lễ 禮, Nghĩa 義, Trí 智và Tín 信 mới có thể phát huy hết sở dụng của nó. Như trên đã nói, dương tính của Càn kiện lưu chuyển cả trong bốn mùa, tuy lúc hiện lúc ẩn nhưng nhờ nó mà Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh mới phát huy hết tác dụng của mình. Cụ thể là:
* Khi đã có lòng Nhân tức đã có lòng thương người, thương nước thương dân, thì trong quan hệ xã hội, người ta sẽ không vì lợi ích riêng mình mà sanh lòng tham, cố ý xâm hại quyền lợi và sức khỏe của người khác bằng những mưu toan hay việc làm như ẩu đả gây thương tích cho người khác; tích trữ hay mua bán đồ gian; không buôn lậu trốn thuế; không lấn đất giành nhà giữa bà con chòm xóm. Giả như ai có hành động đó đối với mình thì cũng thể theo lòng Nhân mà bao dung và nhường nhịn, đừng sợ ai nói mình ngu khờ, phải có hùng tâm tráng chí mới giữ được lòng Nhân tức đức Càn Nguyên của Trời và giữ được giới Nhứt bất sát sanh và Nhì bất du thiết, gìn tròn chữ Nghĩa.
* Khi đã có lòng Nhân, thì người ta đâu nỡ “chia quyên rẽ thúy” làm tan vỡ tình cảm trong sáng của người khác; đâu nỡ làm hư hoại hạnh phúc gia đình bởi lòng ham muốn trăng hoa, gây điều khổ lụy cho bao người liên hệ; đâu nỡ ghét bỏ nguyên linh của mình để dục tâm biến thành ong bướm hút nhụy Tam hoa [11]. Không dính vào những ý tưởng và hành vi kể trên sẽ giữ được giới Tam bất đà dâm, gìn tròn chữ Lễ.
* Khi đã có lòng Nhân, thì người ta không nỡ mượn rượu làm nư, say sưa quậy trên phá dưới, gây mất trật tự trị an từ gia đình ra ngoài hàng xóm; không nỡ thiêu đốt tâm can, bôi mờ thần trí, xóa bỏ công phu của mình bằng cao độ hơi men. Đó là giữ được giới Tứ bất tửu nhục, gìn tròn chữ Trí.
* Khi đã có lòng Nhân, người ta cũng không nỡ bội bạc lời hứa làm người khác thất vọng; không nỡ lừa lọc giả dối để người khác cưu mang sầu khổ; không nỡ chán ghét bản thân mình đến nỗi để đức tin mơ hồ, tâm đạo lãng xao khiến đường tu trì trệ. Được như thế coi như ta giữ tròn giới Ngũ bất vọng ngữ và thành tựu chữ Tín.
3) Năm 1924 = (2+4=6)+(1+9=10-9=1) = 7 :
Số 7 theo số thứ tự của quẻ Dịch thuộc quẻ Địa Thủy Sư 地水師 , có ý nghĩa thuận thời tiến Dương; mượn Dương thối Âm; lấy chánh trị tà, dụng chân diệt giả; tùy thời thoát hiểm.
Số 7 thuộc dương Kim, màu tím, biểu tượng cầu vồng. Là chữ số đặc biệt kỳ diệu mà chúng ta có thể tưởng tượng ra vô số điều ảo diệu, thần bí liên quan tới nó. Như:
* Một tuần lễ có 7 ngày: Thứ hai, Thứ ba, Thứ tư, Thứ năm, Thứ sáu, Thứ bảy và Chủ nhật).
* Bắc Đẩu có 7 vì sao trong chòm sao Đại Hùng: Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc và Phá Quân.
* Cầu vồng có 7 màu: đỏ, vàng, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím.
* Âm giai có 7 âm: đồ, rê, mi, fa, sol, la, si.
* Trong cơ thể con người có 7 trung tâm năng lực hay 7 luân xa: Luân xa số 1 ở vùng sinh dục, Luân xa số 2 ở vùng bụng dưới , Luân xa số 3 ở vùng thượng thận , Luân xa số 4 ở vùng ngực, Luân xa số 5 ở vùng cổ, Luân xa số 6 nằm giữa hai chân mày và đáy sống mũi , Luân xa số 7 tập trung tại tuyến yên, nơi sàn não thất thứ ba.
* Trong đầu não con người có 7 loại hình thông minh hay năng khiếu: Năng khiếu về ngôn ngữ, năng khiếu logic - toán học, năng khiếu về không gian, năng khiếu về âm nhạc, năng khiếu về vận động thân thể, năng khiếu về tương tác, năng khiếu về tự nhận thức bản thân hoặc nội tâm.
* Sinh nhật của Chúa Giêsu là vào ngày 25 (2+5=7), vì vậy số 7 ở phương Tây được gọi là Thiên Chúa.
Số 7 còn tượng trưng cho chiều sâu bên trong của con người để tìm thấy ý nghĩa và kết nối tâm linh giữa con người với Thượng Đế, và là số tốt để đào sâu chân tướng của sự vật. Số 7 cũng được nhiều người trên thế giới xem là một con số may mắn (hạnh vận).
Tóm lại, tục ngữ, ca dao đã dệt thành gấm vóc và điểm tô màu sắc văn hóa về tín ngưỡng dân gian, đặt nền móng cho tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam, mà điểm cao nhứt của sự giao thoa văn hóa và tôn giáo là Đạo Cao Đài. Đồng thời, khi tổng hợp hai tiết mục: Ca dao tục ngữ về Ông Trời, Ông Trời trong Đạo Trời bao gồm ba góc độ: về Đại Đạo, về tôn giáo và về Dịch số đủ để chứng minh cho sở dụng của Thiên Đạo như thế nào. Thiên Đạo khi được vận dụng vào đời sống con người thì đó là Thiên mệnh: Mệnh Trời phú cho gọi là Tính, noi theo Tính ấy gọi là Đạo, và tu luyện theo Đạo gọi là Giáo [11], bởi Đạo với Thiên vốn là một thể, là nguồn cội sinh hóa vạn vật, vạn loại, nên hợp xưng là Thiên Đạo, và Thiên Đạo được diễn hóa thành Tiên Thiên Đại Đạo.
III. TIÊN THIÊN ĐẠI ĐẠO:
Đàn cơ Tý thời mùng 9 tháng Giêng năm Giáp Tý (1924) Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng dạy chuẩn bị thành lập Tiên Thiên Đại Đạo, trích đoạn như sau:
Khai trời mở đất lập Thiên Hoàng
Làm chủ mười hai, Hội Tý sang
Đại Đạo hóa hoằng sanh vạn pháp
Phật Tiên Thần Thánh thọ cơ quan.
Tam Kỳ tá thế ban ân xá
Danh Ngã Cao Đài cứu thế gian
Hữu phước Chơn sư truyền chánh giáo
Bền lòng tu niệm hưởng thanh nhàn.
Ta hỉ hỉ chư chúng sanh! Đã ba Nguơn Ta chiết
Chơn linh xuống thế bằng thai phàm lập giáo tận độ linh căn, bị chúa quỉ ma vương hãm hại xác phàm. Kỳ Ba nầy ta dùng điển quang giáng vào cơ bút, mượn Chơn đồng truyền khẩu dạy đạo.
Tòng! Hãy dạy cho Sung đến rước Nguyễn Hữu Chính tại Phủ Thờ về hợp tác lo khai Đạo. Sau nầy Ta sẽ thâu thêm Thất Thánh, Thất Hiền lo mở cơ Tiên Thiên Đại Đạo đó nghe!
Đương giờ Tý Thiên sanh khai Hội
Lập Cao Đài mở lối cơ quan
Cho con nước Việt Hồng Bàng
Đem con thoát khỏi tai nàn kỳ ba.
Dựng quốc Đạo bửu tòa thơ thới
Dạy thương yêu lập Hội Nhơn Hoàng
Địa Hoàng đất Thuấn âu ca
Đại đồng nhơn loại, bình hòa ngũ châu.
Hiệp ba mối gồm thâu năm cõi [12]
Luyện huờn hư, chín hội qui gia [13]
Tiên Thiên trổ mặt kỳ ba,
Đứng đầu sử Đạo, sau ra đại đồng (…) [14]
Qua trích đoạn Thánh giáo trên, chúng ta có lý do để xác định rằng, Thiên Thiên Đại Đạo không phải là một nhánh, một dòng (chi 枝phái 派) từ một cội (bổn 本), một nguồn (nguyên 源) đã có sẵn, nhưng là do chính Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Đức Chí Tôn dạy lập thành trong Tam Kỳ Phổ Độ, mà Tam Kỳ Phổ Độ lại là Đạo Cao Đài với danh xưng đầy đủ là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cũng do chính Đức Chí Tôn giáng điển sáng khai.
Trong đàn cơ tại Đại Hội Địa Hoàng (Thiên Thai Tịnh) ngày 15 tháng 10 năm Ất Sửu (1925), Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế tiếp tục giáng dạy lập Tiên Thiên Đại Đạo và có lời nhắn nhủ như sau:
“Tiên Thiên Đại Đạo là cái Đạo lớn của Đức Kim Mẫu sáng lập kỳ ba tại Nam bang mà lập thành chánh danh Tiên Thiên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” [15]
Kinh Hoàng Tiết Lục 皇節錄 nxb Thiện Thư Duyên 善書緣- Đài Loan 台彎, có đoạn:
Huyền Khung Cao Thượng Đế 玄靈高上帝
Lịch kiếp ức vạn thiên 歷劫億萬千
Công đức mãn thiên hạ 功德滿天下
Viên thành đạo kiền thiên 無上證真仙 
Giáp Tý niên nguyên đán 甲子年元旦
Giáng điển lập Tiên Thiên 降電立先天
Đại Đạo Tam Kỳ hợp 大道三期合
Thiên vận vĩnh liên miên 天運永連綿.
Sở dĩ Đức Chí Tôn cho biết Tiên Thiên Đại Đạo là của Đức Diêu Trì Kim Mẫu sáng lập là căn cứ sự kiện Đức Kim Mẫu đã giáng điển dạy vị Đạo trưởng chưởng môn Toàn Chân Giáo [16] là Hoàng Đức Huy (1664 - 1731 ) chuyển lập Tiên Thiên Đại Đạo tại Trung Hoa vào thời Thuận Trị nhà Thanh, thế kỷ thứ 17 [17]. Về con người, Tiên Thiên Đại Đạo tại Việt Nam và Tiên Thiên Đại Đạo tại Trung Hoa không liên quan gì với nhau cả, sự trùng hợp ấy đều do huyền linh vận chuyển. Đây thuộc về nguồn gốc Tiên Thiên Đại Đạo, chúng ta sẽ bàn vào dịp khác.
IV. LỜI KẾT
Đạo Trời vốn không ở đâu xa. Nếu nói xa thì xa tít mù trong khoảng vũ trụ bao la; nếu nói gần thì gần ở quanh ta, ở ngay trong lòng ta. Đạo xa người chỉ vì người chẳng màng tới Đạo nên không thấy giá trị mà tìm cầu; thậm chí có thấy giá trị mà chỉ vì mãi quen làm bạn với mười ba con ma dục tình vọng thức nên cam đành xa cách Đạo Trời. Tuy nhiên những ai biết tin tưởng Trời, thờ kính Trời phần nào sẽ biết sống theo Đạo Trời thể hiện qua đạo lý làm người như ca dao bình dân đã bày tỏ. Còn đối với người tu theo Cao Đài thì Ông Trời (Đức Thượng Đế) và cái Đạo của Ngài lại càng thấm đậm rõ nét hơn từ tư tưởng, thái độ và hành vi.
Dẫu sao thì chúng ta vẫn còn là người phàm mắt thịt, cuộc sống vật chất vẫn phải chung đụng với người thế tục, ngoài việc tu hành ra còn phải bươn chải tìm cái ăn, cái mặc, cái ở. Tuy có được những thời cúng tịnh, không sợ chi đến việc xa đạo xa Thầy, chúng ta vẫn tâm niệm rằng luôn có Đấng Cha Trời đang ngự trong tâm, hằng an ủi, hằng hộ trì chúng ta trong những buồn nản, sa sút tinh thần vì những tai bay nạn gởi hay những chướng ngại lý trí từ mọi phương mang đến. Nhưng có lúc tưởng chừng ta không kham nỗi nên cũng buộc phải than thở với Thầy, với Mẹ kèm theo vài giọt nước mắt…mới trút được nỗi khổ đang nằng nặng trong lòng. Thà như thế còn hơn có người khổ quá không muốn tin gì ở Trời Đất nữa, “Trời không giúp thì ta tự lo”, rồi đâm ra làm liều đủ thứ để mong gỡ gạc lại những gì đã mất, cuối cùng chẳng được như ý mà tình trạng lại tệ hại hơn.
Cho nên, ngày lễ Vía Thầy cũng là ngày khai sáng Tiên Thiên Đạo tức Tiên Thiên Đại Đạo, nhắc cho chúng ta ghi khắc một điều là không để mất đi Thiên Tâm, còn gọi là Huyền Khiếu, là sức sống lúc nào cũng có, nơi nào cũng có, ẩn trong đó tính cương kiện của Kiền Đạo tức Đạo Trời. Bốn chữ Càn kiện cao minh trong bài kinh Ngọc Hoàng Bửu Cáo mà ta tụng đọc hằng ngày xem như là cẩm nang, là bùa hộ mạng cho người tu đang sống giữa thế gian đầy khổ đau và cám dỗ./.
THANH CĂN 
______________________
CHÚ THÍCH:
[1] Thiệu Khang Tiết 邵康節(1011-1077)nhà Dịch học, nhà tư tường, nhà thơ thời Bắc Tống có nói: Trời mở tại Hội Tý thuộc quẻ Địa Lôi Phục. Đất mở ở Hội Sửu thuộc quẻ Địa Trạch Lâm. Người sanh ở Hội Dần thuộc quể Địa Thiên Thái. Chu kỳ 12 cung kết thúc ở quẻ Khôn là một Nguyên. Bàn Cổ sanh ở hội Dần (Thiên khai ư Tý, Phục quái dã. Địa tịch ư Sửu, Lâm quái dã. Nhơn sinh ư Dần, Thái quái dã. Chu thập nhị cung nhi chung ư Khôn, thị vi nhứt Nguyên. Bàn Cổ sinh ư Dần 天開於子,復卦也。地辟於丑,臨卦也。
人生於寅,泰卦也。周十二宮而終於坤,是爲一元, 盤古生於寅.
[2] Nguyên tác bài thơ Vịnh Tam Tài của Chí sĩ Trần Cao Vân (1866-1916):
Thiên Địa sinh ngô hữu ý vô 天地生吾有意無
Vị sinh thiên địa nội hàm ngô 未生天地内含吾
Ngô thiên địa hợp tam tài lập 吾天地合三才立
Thiên địa ngô đồng nhất tự đồ 天地吾同一字圖
Ngô xuất địa thời thiên chuyển động 吾出地時天轉動
Thiên giao ngô tịch địa bao lô 天教吾闢地包瀘
Địa thiên tải phúc ngô sinh lạc 地天載覆吾生樂
Thiên địa hóa công ngô hữu hồ 天地化工吾有乎
Trời Đất sinh Ta có ý không?
Chưa sinh Trời Đất có Ta trong
Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh
Trời Đất in Ta một chữ đồng
Đất nứt Ta ra Trời chuyển động
Ta thay Trời mở Đất mênh mông
Trời che Đất chở Ta thong thả
Trời Đất Ta đây đủ hoá công.
(Chí sĩ Trần Cao Vân nxb Đà Nẵng 1999 tr.75-79)
[3] Lê Anh Dũng-Lịch sử Cao Đài Thời kỳ tiềm ẩn (1996) ch.II
[4] Theo sử liệu của Ban Tín Sử Cao Đài Tiên Thiên
[5] I have provided all kinds of fruit for you to eat (Genesis 1:29, Good New Bible, Philippine Society)
[6] Sách Minh Đạo Gia Huấn mục số 34 ghi: Hoàng Thiên bất phụ hữu độc thư nhân 皇天不負有讀書人Hoàng Thiên bất phụ hữu đạo tâmnhân 皇天不負有道心人 Hoàng Thiên bất phụ hữu hảo tâm nhân 皇天不負有好心人.
Nghĩa là: Trời không bỏ quên người có đọc sách (người học thức)
Trời không bỏ quên người có tấm lòng đạo đức.
Trời không bỏ quên người có lòng tốt.
[7] Trang Tử 莊子 thiên Đại Tông Sư 大宗師:Phù Đạo hữu tình hữu tính,vô vi vô hình, khả truyền nhi bất khả thọ, khả đắc nhi bất khả kiến, tự bổn tự căn, vị hữu thiên địa, tự cổ dĩ cố tồn夫道有情有信,無為無
形,可傳而不可受,可得而不可見,自本自根,未有天地,自古以固.
[8] 一本散萬殊,萬殊歸一本(Một gốc phóng ra muôn cái khác nhau, muôn cái khác nhau trở về một gốc)
[9] Thần minh giáng đản, dĩ nghĩa khởi giả dã. Ngọc Đế sinh ư chánh ngoạt sơ cửu nhựt giả, dương số thủy ư nhứt, nhi cực ư cửu, nguyên thủy yếu chung dã 神明降誕,以義起者也。玉帝生於正
月初九日者,陽數始於一,而極於九,原始要終也
[10] Thánh Huấn hiệp tuyển q.1 nxb Tôn giáo 2007 tr.135
[11] Tam hoa 三花: Ba thứ hoa trong nội công tâm pháp của Đạo gia. Ngọc hoa 玉花 tượng cho Tinh 精, Kim hoa 金花 tượng cho Khí 氣, Cửu hoa 九花 tượng cho Thần 神.
[12] Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị Đạo, tu Đạo chi vị giáo 天命之謂性,率性之謂道,修道
之謂教 (Trung Dung ch.1)
[13]  Ý nói qui Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi.  Tam hoa tụ đảnh, Ngũ khí triều nguyên.
[14] Chín hội qui gia: Hội đủ Cửu chuyển huờn hư là giai đoạn cuối của Đơn đạo.
[15] Theo sử liệu của Ban Tín Sử Cao Đài Tiên Thiên
[16] Toàn Chân Giáo: Vương Trùng Dương (1113 - 1170) là một đạo sỹ sống vào đời nhà Tống, là người sáng lập ra Toàn Chân giáo, là Bắc Tông của Đạo giáo Trung Hoa.
[17] Theo Chánh khóa khóa văn 正課課文(boktakhk.pixnet.net)

THÔNG ĐIỆP

TỪ THẦN MẶT TRỜI


Hỡi những rặng rừng thiêng núi thẳm!

Hỡi những loài hạ thú thượng cầm!

Ta là Thần Mặt Trời hằng soi sáng sau những đêm dài tăm tối, mặt đất đã phơi bày. Ta rất đau lòng khi nhìn thấy thiên nhiên và muôn sinh bị loài người xâm hại.

Các khu rừng thân yêu ơi! Trái đất không thể duy trì sự sống nếu những khu rừng các ngươi không khỏe mạnhphát triển. Các ngươi là mái nhà che chở cho hơn hai phần ba số loài trên thế giới. Các ngươi giống như lá phổi xanh của hành tinh, cung cấp oxy và giúp cân bằng lượng mưa và khí hậu. Tuy nhiên, các ngươi đang có nguy cơ bị hủy diệt do nền công nghiệp hiện đại phục vụ cho xã hội tiêu thụ của loài người. Các ngươi đang bị đốt cháy, bị suy thoái ở mức độ kinh sợ: 80% diện tích rừng trên thế giới đã bị phá hủy. Khi rừng các ngươi bị suy thoái hoặc bị phá hủy, thì khối lượng carbon được thải vào khí quyển nhiều hơn lượng phát thải khí nhà kính hàng năm từ nhiên liệu hóa thạch, gây ra mối thảm họa toàn cầu!

Các loài muông thú thân yêu ơi! Ta vô cùng xót xa vì rất nhiều loài động vật hoang dã các ngươi đã suy giảm nghiêm trọng do hoạt động của loài người, khai thác tài nguyên không khôn ngoan để ô nhiễm nguồn nước ảnh hưởng tới sự sống còn của các loài thực vật và động vật.

Nhưng các ngươi hãy yên tâm, từ nay cho đến năm 2020, Ta tin tưởng rằng, tiếng nói Hòa Bình Xanh sẽ tác động đến loài người, đến các công ty khai thác gỗ, chấm dứt nạn phá rừng ở những khu rừng nguyên sinh để bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường hoang dã; tái chế và giảm năng lượng tiêu thụ hàng hóa; giảm thiểu sử dụng các chất diệt cỏ và thuốc trừ sâu để bảo vệ những gì còn lại của các hệ sinh thái đặc biệt và làm giảm biến đổi khí hậu.

Hỡi những hàng giáo dân trên toàn thế giới!

Ta là Thần Mặt Trời hằng soi sáng sau những đêm dài tăm tối, mặt đất đã phơi bày, Ta rất đau lòng khi nhìn thấy không ít người tuy có tín ngưỡng tôn giáo vẫn đang bị cuốn hút vào dòng thác lũ tham lam và thù hận.

Các ngươi hãy truyền rao cho nhau về ý nghĩa và vai trò của tôn giáo là gìn giữ hòa bình; tôn giáo không là nguồn gốc của sự xung đột, bởi Thượng Đế là Cha của sự thương yêu, là giềng bảo sanh của càn khôn thế giới, chớ Thượng Đế không kêu gọi bạo lực. Các ngươi đừng hiểu lầm qua những tay mộng bá đồ vương lợi dụng tôn giáo làm nhãn hiệu phát động chiến tranh; nhân danh Thượng Đế để giết người hàng loạt, khủng bố thậm chí tội ác diệt chủng.

Hãy trả lại sứ mạng đích thực cho tôn giáo là bảo vệ hòa bình!

Hỡi những nhà lãnh đạo và đại diện tôn giáo Cao Đài!

Ta là Thần Mặt Trời hằng soi sáng sau những đêm dài tăm tối, mặt đất đã phơi bày, một phần thần quang của Ta trực chiếu vào mảnh đất Việt Nam. Ta rất buồn khi nhìn thấy hiện tình tôn giáo Cao Đài, đã gần một trăm năm tuổi Đạo mà vẫn chưa trưởng thành, còn yên phận ngủ vùi trong từng lũy tre làng, trong từng ý hệ phái phe cục bộ.

Hãy thức dậy và mở rộng cửa ra, để nhìn thấy không gian bao la bên ngoài và để mọi người được nhìn thấy không gian ấm cúng bên trong! Các ngươi đang sống trong một thế giới mà ở đó sự cô lập điều không thể chấp nhận. Các ngươi đang sống trong một thời gian chuyển biến chưa từng có của các dân tộc các nền văn hóa giao thoa; cho nên các ngươi đều phải phụ thuộc lẫn nhau, chia sẻ nhau một trách nhiệm không thể thiếu chỉ vì hạnh phúc cho nhân loại, bởi các ngươi là nhân loại!

Hãy chung tâm thực hiện đầy đủ vai trò của mình như là một lực lượng gìn giữ hòa bình ngay trong hàng ngũ tôn giáo, phục vụ như là một liên kết truyền thông giữa hai bên đối lập, và cung cấp, đào tạo phương pháp hòa bình qua đối thoại liên tôn; đối thoại liên chi; đối thoại với tổ chức mình và đối thoại ngay cả chính mình. Đối thoại với chính mình là nhìn thẳng vào tâm thức, là hồi quang phản chiếu, để nhận ra đâu là thánh tâm, đâu là phàm ý, giữ lấy thánh tâm làm nòng cốt cho mọi hành xử tiếp theo.

Đối thoại với chính mình là cách tự phê tốt nhứt cho các ngươi để trở thành nhà tu, nhà hướng đạo trọn vẹn đức hạnh trong tôn giáo. Người hướng đạo hãy xứng đáng là trung tâm về đức hạnh; trong cái trung tâm về đức hạnh ấy, còn có cả đức tính khoan dung và khiêm tốn. Hướng đạo là người chăn dắt, việc hành xử của các nhà hướng đạo có tính cách kéo hơn là đẩy, giảng dạy hơn là ra lệnh, truyền cảm hứng hơn là trách móc. Hướng đạo là người để phục vụ nhơn sanh chớ không phải để xây dựng đế chế, có bệ chống lưng; ngồi một chỗ mà ra lệnh cho người khác phục vụ mình; ai góp ý sửa sai thì cho rằng kẻ đó chống báng mình và tìm cách triệt tiêu họ. Hành đạo dựa vào tài năng và đức độ, không dựa vào một cây to bóng cả nào để làm thế chống lưng, hoặc cam tâm làm cây chống lưng cho hàng con buôn đội lốt tu hành.

Ta biết rằng tôn giáo không phải là phương thuốc duy nhất cho tất cả những căn bệnh thời đại, nhưng nó có một sứ mạng không thể thiếu trong thời khắc quan trọng này, nhất là sứ mạng Đại Đạo của các ngươi.

Thế kỷ mới vừa sang vài trang, cũng là vài trang mở đầu cho thời đại nhất thể hóa; làm thế nào duy trì niềm tin vốn có, đồng thời làm cho tốc độ Đại Đạo bắt nhịp với tiến bộ xã hội nhơn loài.
Trước thềm năm mới, nhân danh ánh sáng Mặt Trời, Ta cầu xin Thượng Đế ban cho các ngươi ân điển của sự hòa hợp, hòa giải hòa bình; chỉ có hòa hợp và hòa bình mới mang đến cho nhơn loại một cuộc sống hạnh phúc thịnh vượng trong một thế giới tốt đẹp hơn. Ta chào tất cả và chúc lành muôn loài trên trái đất./.
Ghi chép: THANH CĂN



Thứ Bảy, 22 tháng 1, 2011


TRƯỜNG THI LONG HỘI

Đạo Cao Đài do Đức Chí Tôn dùng huyền diệu Tiên gia khai sáng đến nay được 86 năm mà bất cứ ai từ khi mới nhập môn, ngoài việc học thuộc lòng kinh Nhựt tụng và Giới luật Điều qui, còn nghe và đọc nhiều Thánh ngôn, Thánh giáo dạy đạo, trong đó các Đấng cũng đã nhiều lần cho biết về Đại Hội Long Hoa sẽ khai diễn như là một trường thi lớn cho người tu theo Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Trước khi dự trường thi lớn phải qua những đợt thi nhỏ , từ thấp đến cao, từ dễ tới khó, cũng giống như ngày xưa ngoài đời muốn đoạt giải ở đợt thi Đình (Tiến sĩ) thì phải trải qua hai cuộc thi Hội (Cử nhân) và thi Hương (Tú tài).

          Cho nên hiện tại chúng ta đồng đẳng là đệ tử của Đức Cao Đài, dù ở cương vị nào, tín đồ hay chức việc, chức sắc cũng vẫn là một thí sinh trong trường thi Đại Đạo. Sở dĩ đặt ra cấp bậc hành chánh đạo theo hệ thống Pháp Chánh Truyền là để cùng dẫn dắt nhau, giúp đỡ nhau trên đường “ứng thí”, như trong lớp học ngoài đời, tổ trưởng, lớp trưởng được cử ra để giúp giáo viên quản lý tốt lớp học, chớ đồng thời anh tổ trưởng, lớp trưởng kia cũng chỉ là học viên mà thôi.

          Đức Văn Tuyên Khổng Thánh cũng đã dạy:

“Dưới thế trần là nơi trường học,
                   Để mở mang trí thức nhơn loài;
                             Mỗi kiếp mỗi lớp vở bài,
               Ai siêng học tập, đức tài tiến cao.
                   Từ kim cổ ai nào chẳng học,
                   Muốn nên người chí dốc tu thân;
                             Tu thân phải rán ân cần,
               Trau tâm sửa tánh nên thân làm người.
                   Trước là người, sau thời nên Thánh,
                   Dù Phật Tiên trong cảnh thế trần;
                             Cũng lo tu học lãnh phần,
               Khai minh giáo lý tinh thần sáng lên”[1]

          Học ở trường đời thì mỗi năm mỗi lớp, còn học ở trường Đạo thì mỗi kiếp mỗi lớp, và trong mỗi lớp ấy đều có những bài vở khác nhau để học tập từ thấp lên cao, mà từ xưa tới nay đều phải như vậy cả, dù bậc Thánh triết Hiền nhân hay Tiên gia Bồ Tát cũng không vượt qua lề luật ấy để thành tự ngôi vị được. Nói đến đây, chắc chúng ta cũng không khỏi thắc mắc rằng, Ngài Lục Tổ Huệ Năng xưa kia có học chữ nào đâu mà vẫn ngộ đạo và đắc đạo ? Cũng dễ hiểu thôi. Nếu theo trình tự trên thì kiếp tu vừa qua của Ngài có thể đã đạt tới bậc A-La-Hán, là bậc thoát khỏi phiền não, hoàn thiện đạo đức, huệ trí viên dung rồi, kiếp nầy chỉ cần một hành động khai thị từ một vị minh sư thôi cũng đủ hoát nhiên đại ngộ, đâu cần phải chữ nghĩa dài dòng. Hoặc có một cái thắc mắc nữa là Thánh giáo dạy ta phải học nhưng tại sao trong Đạo Đức Kinh, Đức Lão Tử bảo phải “tuyệt học vô ưu”(dứt học không lo) ? Cái mà Ngải bảo “dứt học” là đừng học những hình danh sắc tướng của thế tục bên ngoài, nó làm phình to thêm cái bản ngã phàm phu của minh; làm ngăn ngại cái đạo học bên trong của mình, chỉ âm thầm bắt chước (học) Đạo tự nhiên để hoàn nguyên phản bổn mà thôi. Đặc biệt trong Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn bãi bỏ lệ cũ của hai thời kỳ trước là tu cho hết giai đoạn nầy rồi mới tới giai đoạn kia, ẩn trên non, bế môn nhập thất tu cho đến ngày chứng đạo mới xuống núi độ đời; còn bây giờ là thời kỳ Đại Ân Xá, Thầy ban chiếu theo cựu pháp mà lập thành tân pháp, có cả phước huệ song tu, hai mặt hữu vô cùng phải tu một lượt nhưng không phải đốt giai đoạn hay nhảy lớp mà là rút gọn chương trình tu học lại để kịp dự kỳ thi tuyển vào trường thi Long Hội.

          Tóm lại, ai muốn làm Phật thì phải học cách làm theo Phật; ai muốn làm Tiên thì phải học cách làm theo Tiên; ai muốn làm người thì phải học cách làm theo người; ai muốn làm ma quỉ thì học theo cách làm của ma quỉ. Làm môn đệ của ai thì phải theo về người ấy như đoạn Thánh giáo dưới đây:

                   “Con Thầy, Thầy dắt về ngôi,
          Con Phật, Phật độ phản hồi Tây phương.
                   Con Tiên, Tiên dắt lên đường,
Con Thánh, Thánh hiệp nhứt trường nghĩa nhân.
                   Con Thần, lên đài Phong Thần,
          Con người hiền đức lãnh phần thanh cao,
                   Con ma, ma kéo lộn nhào,
                   Con quỉ, quỉ níu sa vào hố sâu…” ( ? )

           Đó là một chút khái niệm về việc học của người tu chúng ta. Trở lại vấn đề mà người đạo hữu Cao Đài trải ba bốn thế hệ nay vẫn còn hơi mơm mơp đợi chờ, không biết chừng nào tới, và mình có hy vọng gì thấy và kịp tham dự ngày đó không. Ngày đó là ngày “Phán Đoán Đài Đồng”, “Đại Hội Long Hoa” mà Ơn Trên đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong thánh giáo.

          Đức Quan Thánh Đế Quân cũng cho biết nguyên nhân khai hội Long Hoa:

                   “Tại sao mở Long Hoa tại thế ?
                   Bởi vì đời hư tệ nhơn luân !
                             Chẳng tùy mỹ tục phong thuần,
               Tam cang hư hoại, Ngũ thường đảo điên.
                   Đời như thế, đâu yên ổn được,
                   Đời như vầy, ác trược dẫy đầy;
                             Nên trong Tam Giáo giải bày,
             Đời cùng mạt kiếp không sai sấm truyền”.
[Thánh Huấn HT nxb TG 2007 q.2 tr.137]

Saám truyeàn veà ngaøy phaùt xeùt cuoái cuøng:

        Theo Kinh Thánh của Thiên Chúa Giáo:
          Về các đại nạn;
Ma-thi-ơ 24:5-8 "Vì nhiều người sẽ mạo danh ta đến mà nói rằng: Ta là Đấng Christ; và sẽ dỗ dành nhiều người. Các ngươi sẽ nghe nói về giặc và tiếng đồn về giặc: Hãy giữ mình, đừng bối rối, vì những sự ấy phải đến; song chưa là cuối cùng đâu. Dân nầy sẽ dấy lên nghịch cùng dân khác, nước nọ nghịch cùng nước kia; nhiều chỗ sẽ có đói kém và động đất. Song mọi điều đó chỉ là đầu sự tai hại."

II Phi 3:10 «Bấy giờ các từng trời sẽ có tiếng vang rầm mà qua đi, các thể chất bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả».


          Về tái lập đời Tân dân:

Khải 21:5 «Đấng ngự trên ngôi phán rằng: Nầy, ta làm mới lại hết thảy muôn vật. Đoạn, lại rằng: Hãy chép, vì những lời nầy đều trung tín và chân thật»
Khải 21:1 «Đoạn, tôi thấy trời mới và đất mới, vì trời thứ nhứt và đất thứ nhứt đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa».
II Phi 3:13 «Vả, theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở».
Taïi sao ngaøy phaùn ñoaùn cuoái cuøng
goïi laø Hoäi Long Hoa ?

Cao Đài Từ Điển định nghĩa: Long : Rồng, mạch nước, chỉ vua. Hoa 華(=花): bông. Long Hoa là một cái cây có hình giống như con rồng đơm hoa rực rỡ.
Đức Phật Di-Lạc sẽ đắc đạo dưới cội cây Long Hoa nầy, cũng như Đức Phật Thích Ca đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề.
Đức Phật Di-Lạc sẽ làm Giáo chủ một Đại hội thi tuyển chung kết để chọn người hiền đức dưới cội cây Long Hoa, nên Đại hội nầy được gọi là Đại Hội Long Hoa.
Vậy Đại Hội Long Hoa là hội thi chung kết sau một giai đoạn tiến hóa dài của nhơn loại, để tuyển lựa những người hiền lương đạo đức, loại bỏ những kẻ hung bạo gian tà, thực hiện sự công bình thiêng liêng, để rồi sau đó sẽ chuyển qua một giai đoạn tiến hoá mới [CĐTĐ-ĐỨC NGUYÊN 2004].

Giai đoạn tiến hoá mới đó là tuyển phong Thiêng liêng vị bằng nguyên tắc tương công chiết tội (lấy công trừ tội, luận công xét tội).

Kinh Đại Tường có đoạn:
                    Hội  Long Hoa tuyn phong Phật vị,
                   Cõi Tây phương đuổi quỉ trừ ma;
                             Giáng linh Hộ Pháp Di Đà,
               Chuyển cây Ma-xử đuổi tà trục tinh”.

          Bài Cầu nguyện Long hoa:
                   Long Hoa chuyển phục nhơn lành,
          Tương công chiết tội phân rành thiệt hư”.


Tiêu chuẩn tuyển phong nêu trên còn kèm theo điều kiện để hoàn thành tiêu chuẩn đó.


Ñieàu kieän naøo caàn hoäi ñuû
ñeå phoù baûng Long Hoa ?


 Công nghiệp dồi dào âm chất đủ,
                   Long Hoa đợi hội, hưởng Thiên ân”
[Thánh Ngôn HT –TTTN 1964 q.II tr.120]
          Hoặc:

                   “Con ôi! Tương rau dưa muối
 mới hết lòng lần chuổi niệm kinh.
Con ôi! Công phu công quả công trình,
Sớm lo giúp nước, chiều mình công phu.
Mặc kẻ thế lộng dù xe cộ,
Mặc cho đời đoái mộ khinh khi;
Chí con, con vững bước đi,
Đi cho đúng kịp khoa kỳ thi công.
Ngày Phán Đoán Đại Đồng ban thưởng,
Cả các con đồng hưởng sum vầy,
Đó là vui đẹp lòng Thầy,
Đứa không, đứa có dạ nầy không yên…(?)

           Qua hai đoạn Thánh giáo trên, ta có thể phân ra từng tiết mục của điều kiện mà người học trò Tiên trong Tam Kỳ Phổ Độ phải hội đủ để làm vốn liếng đến trường thi Long Hội.

        Coâng nghieäp doài daøo, aâm chaát ñuû:

          Chữ công nghiệp ở đây có nghĩa: Công [] là Tam Công; Nghiệp [] là sự tạo tác do thân, khẩu, ý thực hiện. Tạo lập tam công bằng cả Thân (hành vi), Khẩu (ngôn ngữ) và Ý (tư tưởng).

          Trong thực tế, vấn đề tam công chúng ta quá quen thuộc đến nằm lòng. Như hễ ai hỏi “phương tu của Đạo Cao Đài là gì?”, ta trả lời ngay là “tam công!” và giải thích luôn ý nghĩa của từng công phu, công quả, công trình nữa. Nhưng khi đặt tam công thành một công nghiệp thì ta thấy phát sinh vấn đề cần phải nhìn lại kỹ để trong quá trình “làm bài thi” không bị sơ xuất vì lỗi bố cục của bài văn rời rạc thậm chí không ăn khớp (mâu thuẩn) đoạn trước với đoạn sau. Ta thử ví dụ điển hình xem lối bố cục bài văn nào tốt hơn:

          Veà Coâng Phu:

a) Công phu bằng cả thân-khẩu-ý: Trong lúc cúng thời thì thân quì ngay ngắn, thong thả, thoải mái; miệng đọc cho rõ chữ, tránh đọc trại, đọc sai; ý duyên theo, nương theo lời kinh câu chú liên tục không để đứt đoạn, nếu bị phóng tâm đứt đoạn thì kịp thâu nối lại liền. Ngồi thiền thì thân ngồi đúng tư thế mình chọn (kiết dà, bán dà…), không lắc lư gục gật; miệng ngậm không để hở răng; ý duyên theo hơi thở hoặc an trú tại đơn điền, không để phóng vọng lung tung. Đó là thời công phu hiệu quả.

          b) Công phu thiếu phần tham gia của thân-khẩu-ý: Trong lúc cúng thời, thân thì quì lạy không nghiêm túc và đúng cách thức (bắt ấn, lấy dấu, xá, gật); miệng thì đọc sai chữ trại giọng, hoặc ngưng đọc nói với ra ngoài; ý tưởng  thì cứ mông lung chuyện nầy việc nọ. Ngồi thiền thì thân thể cong nghiêng, gật gù, xoay qua trở lại, ngó tới ngó lui xem tới giờ chưa; miệng răng thì nửa khép nửa mở; ý tưởng đi một nơi làn hơi đi một nẻo, thần khí phân ly. Đó là thời công phu không hiệu quả.

          Veà Coâng Quaû:
         
a) Công quả bằng cả thân-khẩu-ý: Bản thân dùng tay hiến cúng tài vật dù ít dù nhiều đều thể hiện sự trân trọng; miệng nói lời từ tốn góp công; ý tưởng chơn thành nguyện hồi hướng công đức nầy cho chúng sanh và Cửu Huyền Thất Tổ. Hoặc xuất thân công quả lao động, thì thao tác tích cực với công việc mình đảm trách; miệng nói những lời góp ý khiêm nhường; ý tưởng tập trung mong hoàn thành tốt công việc, sẵn sàng tiếp thu sáng kiến mà không tự ái cá nhân. Đó là vẹn toàn phần công quả.
          b) Công quả không có phần tham gia của thân-khẩu-ý: Bản thân hiến cúng tài vật mà miệng luôn kể lể; ý tưởng thì mong cầu sự đền đáp của Thiêng liêng hay đòi hỏi sự nể nang của đồng đạo và theo ý riêng mình. Khi xuất thân công quả lao động thì miệng luôn đề cao khả năng của mình và chê bai người khác, ai góp ý thì sân si cự cải hoặc tự ái bỏ dỡ công việc. Đó là phần công quả không vẹn toàn.

Veà Coâng Trình: Công trình thuộc về ý chí, có chức năng hỗ trợ, thúc đẩy cho cả công phu và công quả đi đúng tiến độ của quá trình tu công lập đức, và nó cũng là sinh lực của thân, khẩu, ý nhằm tạo sự liên kết giữa tam công mà hình thành khối âm chất hoàn hảo tức “âm chất đủ”. Do vậy, công trình luôn mang hai hai yếu tố:
Töông rau döa muoái:

Nói đến “tương rau dưa muối” khiến ta hình dung đến cuộc sống chay tịnh, thanh bần, tiết kiệm mà giữa những quyến rũ của thế giới ẩm thực ngoài đời và sự cuốn hút của xã hội tiêu thụ, ít có người giữ được nếp sống đạm bạc trong điều kiện không thiếu thốn.

Thầy khuyên ta “tương rau dưa muối” cũng không có nghĩa là bảo ta cứ ngày nào cũng dùng bửa bằng tương với rau, dưa với muối; nhưng ngụ ý rằng Thầy khuyên ta ăn chay, thanh đạm bằng những loại rau quả, vì nó làm cho thân thể nhẹ nhàng, giúp ta giảm bớt ham muốn phù du, an tâm mà đi vào chánh định: lần chuỗi, niệm kinh. Không còn những ham muốn phù du thì màng chi đến sự so sánh hơn kém nhau về cái ăn, cái mặc, cái ở hay thế thái nhân tình đoái mộ, khinh khi… cho mất thời gian tư lự vô ích. Cõi tạm, nhà tạm, lúc nào đó ta cũng phải vội vã ra đi, chỉ mang theo bên mình cái “công nghiệp dồi dào, âm chất đủ” để kịp dự thí trường Long Hội.

                   “Con tinh thần phải bền Tâm Đạo,
                   Con rán lo đào tạo đức âm;
                             Con đừng lơ lãng, lạc lầm,
               Trễ kỳ muôn kiếp ngàn năm khổ sầu”
[Thánh Huấn HT nxb TG 2007 q.2 tr.70]

        Laäp tröôøng tinh taán:

        Nhờ tương rau dưa muối và an trú trong chánh định, nên không rơi vào vòng đảo điên mộng tưởng. Đã lập được chí, đã gặp được Thầy, đã hiểu được đạo thì chúng ta cứ thế mà vững bước đi lên, không chần chừ bịn rịn gì nữa. Thế nào là chần chừ, bịn rịn ? Có hai trạng thái mô tả thái độ chần chừ, bịn rịn:

          Một là bận lo sự nghiệp vật chất để con cháu có cái  thừa tự và nói đây là “nhơn đạo” phải lo cho rồi, mà quên đi câu “tích âm đức dĩ vi tử tôn trường cửu chi kế”: chứa âm đức mới là kế sách lâu dài cho con cháu đời sau. Nên “bài vở” trường thi không được liên tục, bỏ trống nhiều chỗ, thiếu điểm chuyên cần, tới giờ chuông reo lấy chi mà nạp quyển ?

          Hai là đức tin chưa vững nên lập trường bị lung lay, nay nghe “pháp” bà nầy hay, chạy theo; mai nghe “đạo” ông nọ giỏi, chạy theo, đến mãn đời không tới đâu cả. Giống như bỏ gốc theo ngọn nhưng lại là ngọn “chùm gởi” ký sinh, thoạt thấy lá xanh tươi tốt rồi chẳng bao lâu trơ cành khô héo.

          Thôi thì thời gian còn lại của chúng ta tính theo tuổi đời không còn bao lâu nữa, từ vị trí đứng đến phương hướng tu đều đã có sẵn là Tiên Thiên Đại Đạo, cứ y khuôn phép nầy mà tu hành để kịp “khoa kỳ thi công” và để vui lòng Thầy nơi cung Bạch Ngọc.

Nhöõng baøi taäp kieåm tra:

“Nhỏ dại Thầy nuôi mùi đạo hạnh,
                   Lớn lên bây xứng mặt hiền lương;
                   Vinh hoa phẩm cũ ngôi xưa đó,
                   Khổ cực các con chớ bỏ trường”.
[Thánh Ngôn HT –TTTN 1964 q.II tr.116]

        Trên là phần trình bày về bài thi tổng quát, chuẩn bị cho kỳ thi lớn, bên cạnh đó chúng ta sẽ lần lượt làm bài tập kiểm tra cho từng đợt, và không biết phải qua bao nhiêu đợt kiểm tra nhỏ mới tới kỳ thi lớn. Thầy lo chúng ta không chịu nỗi “cực khổ” nên khuyên: dù cực khổ cách mấy cũng đừng bỏ trường thi. Những bài kiểm tra tuy nhỏ nhưng rất cần thiết vì điểm của nó sẽ được bảo lưu để cộng vào điểm của kỳ thi cuối. Vậy những bài tập khảo duợt ấy được thể hiện dưới hình thức nào ?

          Bên trong bản thân phát sinh những chướng ngại do các hiện tượng về sanh, lão, bệnh hoành hành chúng ta nên đề ra yêu cầu là nhẫn nại, bình tỉnh, chịu đựng, vượt qua một cách hoan hỉ cho các tình huống sau:

          -Tiền bạc sinh kế thiếu trước hụt sau, nợ nần chồng chất; nơi ăn chốn ở không đủ tiện nghi.

          - Đau bệnh kéo dài, bị hành thân hoại thể.

- Con cái không hiếu thuận, có những lời nói hành vi ngỗ nghịch. Bị vợ hoặc chồng, hoặc cha mẹ mắng mỏ nặng lời vì không đồng thuận cho việc tu hành lập công bồi đức.
- Bị người thân hay người ngoài đạo xuyên tạc, bài bác tôn giáo mà mình đang theo nhằm khiến cho mình nản lòng bỏ đạo.

- Bị người đồng môn hay lãnh đạo gieo tiếng oan hoặc tỏ lối gia trưởng sai sử làm việc nầy việc nọ trong phạm vi thánh tịnh.

          - Giọng kèn tiếng huyễn, lôi kéo mình đi chệnh hướng; hoặc phân phe tách nhóm, lủng đoạn tinh thần thương yêu đoàn kết.

Những bài tập kiểm tra xem như đơn giản nhưng khi bắt đầu làm rất khó, cho nên mới cần đến sức nhẫn nại gấp đôi để đạt điểm cao cho mỗi kỳ khảo duợt.

Ñoaïn keát:

        Hiện nay trên mạng thông tin toàn cầu đã lan truyền về ngày tận thế 21.12.2012 căn cứ theo lịch tôn giáo của người cổ đại Maya và các giả thuyết khác, khiến mọi người trên thế giới hoang mang lo sợ về ngày trái đất bị huỷ diệt sắp tới. Một số người ở châu Âu và Mỹ lục thục lên núi dọn chỗ trú ẩn sẵn hy vọng tránh được đại hoạ, khiến cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) ph ải lên tiếng dập tắt tin đồn ấy, và “NASA khẳng định những câu chuyện ấy chỉ là trò chơi khăm trên Internet”:

      “Những lời khẳng định về ngày tận thế vào năm 2012 chẳng dựa trên bất kỳ cơ sở khoa học nào. Nếu trái đất có nguy cơ va chạm với một thiên thể nào đó, giới thiên văn đã phát hiện ra thiên thể đó từ hàng thập kỷ trước khi vụ va chạm xảy ra. Nếu hành tinh mà người ta gọi là Nibiru sắp đâm trúng trái đất vào năm 2012 thì giờ đây chúng ta có thể quan sát nó bằng mắt thường. Nhưng chẳng ai thấy gì hết, bởi hành tinh ấy không tồn tại.
          Các nhà khoa học uy tín trên thế giới không tìm thấy bất kỳ hiểm họa nào đối với địa cầu trong năm 2012. Tóm lại hành tinh của chúng ta sẽ yên ổn trong hơn 4 tỷ năm nữa”,
NASA tuyên bố trên trang web.
[Theo VnExpress]

         Đối với người đạo Cao Đài, những loại tin đồn ấy không gây ảnh hưởng tiêu cực nào đến đời sống tâm lý,vì lẽ từ buổi khai Đạo đến giờ chúng ta đã nghe Ơn Trên dạy nhiều về những gì diễn tiến trong thời Hạ nguơn mạt kiếp, mở Hội Long Hoa, chuyển lập đời Thánh Đức. Ơn Trên chưa bao giờ cho chúng ta biết năm tháng ngày giờ nào sẽ xảy ra cuộc đại biến thiên ấy; và cũng chưa từng phán là loài người sẽ bị huỷ diệt trong ngày “tận thế” đó. Bởi nếu loài người bị huỷ diệt hoàn toàn thì Đạo Cao Đài làm sao tồn tại đến “thất ức niên” (7 trăm ngàn năm) như lời Thầy dạy ?

              Cho nên, Thánh giáo thường dạy chúng ta tu thế nào cho hợp với Thiên cơ, tức máy Trời, mà máy Trời thì càng ngày nhặt thúc. Con người trên mặt mất càng đông chừng nào thì sức huỷ hoại thiên nhiên càng mạnh chừng nấy; sức huỷ hoại thiên nhiên càng mạnh thì đại nạn càng tăng. Người tu theo thiên cơ là sống với đạo tự nhiên, ai ác mình thiện; ai phá hoại mình tô bồi; ai hướng ngoại, mình hướng nội; ai vọng động, mình định tịnh. Nhất tâm bất loạn trong một thế giới đầy dẫy những ác trược và biến loạn để có đủ minh mẫn mà làm bài thi cho trường thi Long Hội. Và trong những năm gần đây vẫn còn là giai đoạn “chuyển hoá Long Hoa” như lời Đức Lý Đại Tiên dạy:
                 
“Chuyển hoá, Lão đây định nghĩa rành,
         Chuyển là nỗ lực để vươn mình;
         Chuyển đời xáo trộn ra ô trược,
         Chuyển đạo phân minh rõ bạch thanh.
         Chuyển cá thành rồng bay khỏi nước,
Chuyển phàm hoá thánh thoát vòng danh;
         Chuyển như vũ bảo rồi mưa đổ,
         Chuyển cả thân tâm được trọn lành”.
[ Thánh Huấn HT nxb TG 2007 q.1 tr.145]

        




THANH CĂN


                            



Sóng thần
 
Đám mây hình nấm do quả bom nguyên tử
ném xuống Nagasaki Nhật Bản tạo thành vào năm 1945
Nạn nhân quân đội Nhật Bản tại Nam Kinh






 
 Nạn đói ở Châu Phi

Hiểm họa từ các trận đại dịch


[1] [Thánh Huấn HT nxb TG 2007 q.1 tr.34]